Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha; với Phật giáo Bắc truyền, ngày Thành đạo diễn ra vào ngày mùng 8 tháng 12 âm lịch.
22/03/2023
Trong ngày hôm nay, thời gian tổ chức sự kiện Đức Phật thành đạo đã được mặc định như trên, và đã mang tính phổ biến trong hai truyền thống Phật giáo.
Tuy nhiên, trước khát vọng hướng về chân lý của thực tại khách quan, thì việc tìm hiểu cơ sở triết lý và hiện thực lịch sử liên quan đến thời gian Đức Phật thành đạo, cũng là một trong những nhu cầu quan thiết của nhân loại nói chung và người con Phật nói riêng.
Trong tinh thần đó, chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát thư tịch từ Hán tạng cho đến Nikāya liên quan đến ngày, tháng Thành đạo của Đức Phật, nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm về sự kiện quan trọng này.
Ngày, tháng Thành đạo của Đức Phật theo Hán tạng
1- Cơ sở kinh, luật
Trong kinh, luật Hán tạng, có hai quan niệm về ngày, tháng Thành đạo của Đức Phật. Bao gồm, ngày mùng 8 tháng 2 và ngày mùng 8 tháng 4.
+ Ngày mùng 8 tháng 2, gồm có các kinh, luật sau:
- Kinh Trường A-hàm, do ngài Phật-đà-da-xá và Trúc-phật-niệm dịch vào năm 4132.
- Kinh Quá khứ hiện tại nhân quả do ngài Cầu-na-bạt-đà-la (394-468) dịch3.
- Tát-bà-đa-tỳ-ni Tỳ-bà-sa,mất tên người dịch, phụ vào dịch phẩm nhà Tần4.
+ Ngày mùng 8 tháng 4, gồm có các kinh sau:
Kinh Phật Bát-nê-hoàn do Sa-môn Bạch Pháp Tổ dịch vào thời Tây Tấn (266-316)5.
Kinh Bát-nê-hoàn, không ghi tên người dịch, phụ vào dịch phẩm thời Đông Tấn (317-420)6.
Kinh Phật thuyết Ma-ha-sát-đầu do Sa-môn Thích Thánh Kiên dịch vào thời Tây Tần (385-431)7.
Trong sáu nguồn kinh, luật nêu trên không đề cập đến ngày mùng 8 tháng 12. Vậy, thực chất ngày Thành đạo của Đức Phật mà Phật giáo Bắc truyền hiện đang tổ chức dựa trên cơ sở nào?
2- Cơ sở luận thư về ngày Đức Phật thành đạo mùng 8 tháng 12
Một trong những tài liệu quan trọng trong sinh hoạt thiền môn của Phật giáo Bắc truyền là tác phẩm Bách Trượng thanh quy. Bách Trượng thanh quy do ngài Bách Trượng Hoài Hải (720-784) biên soạn vào thời nhà Đường để làm cương lĩnh sinh hoạt cho người xuất gia. Trải qua chiến loạn ở Trung Hoa nhiều thời kỳ, tác phẩm Bách Trượng thanh quy đã bị thất lạc, nhưng những nội dung chính của tác phẩm đã được một số bộ sách cũng như các bản thanh quy khác thu lục, giữ gìn. Mãi đến năm đầu của niên hiệu Chí Nguyên (1335) thời nhà Nguyên, cháu nối dòng đời thứ 18 của Tổ Bách Trượng là Thiền sư Đức Huy dựa trên di cảo của ngài Bách Trượng trong các bộ thanh quy hiện hành mà biên soạn thành Sắc tu Bách Trượng thanh quy8.
Theo Sắc tu Bách Trượng thanh quy, quyển 2, cho rằng ngày Đức Phật thành đạo là ngày mùng 8 tháng 12 (臘月八日). Tác phẩm không nêu rõ dựa trên cơ sở tư liệu nào để ngài Bách Trượng, hoặc ngài Đức Huy cho rằng, ngày mùng 8 tháng 12 là ngày Đức Phật thành đạo, mà chỉ trình bày cách thức tổ chức và nội dung nghi lễ. Đây là một thiếu sót đáng tiếc.
Sau nỗ lực khảo sát thư tịch Hán tạng, chúng tôi đã phát hiện ra rằng, nguồn gốc ngày lễ Đức Phật thành đạo mùng 8 tháng 12 xuất hiện trong văn bản khá sớm, vào khoảng thế kỷ thứ VI, hiện được thu lục trong Đại tạng kinh chữ Hán, tập 46, với tên gọi là Nam Nhạc Tư Đại Thiền Sư Phát Thệ Nguyện Văn9.
Tác phẩm Nam Nhạc Tư Đại Thiền Sư Phát Thệ Nguyện Văn do ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (515-577), vị cao tăng ở thời đại Nam-Bắc triều, là vị Tổ thứ ba của tông Thiên Thai10, soạn vào đời nhà Trần (557-589). Nội dung bản văn nói về việc phát tâm Bồ-đề trong quá trình cầu đạo của tác giả. Đặc biệt, đầu bản văn, ngài Tuệ Tư đã khẳng định, Đức Phật thành đạo vào ngày mùng 8 tháng 12 năm Quý Mùi, lúc Ngài 30 tuổi11.
Từ quan điểm của ngài Tuệ Tư và quan điểm của ngài Bách Trượng, qua sự chuẩn thuận và hoằng dương của các vị quân vương hộ pháp, truyền thống Phật giáo Bắc truyền đã từng bước chấp nhận và sử dụng ngày mùng 8 tháng 12 làm ngày Đức Phật thành đạo cho đến hôm nay.
Xem ra, từ quan điểm đề xuất của hai vị cao tăng có nhiều đóng góp trong lịch sử Phật giáo, đã từng bước định hình nên ngày lễ Đức Phật thành đạo mang tính thống nhất của Phật giáo Bắc truyền. Ở đây, việc xét xem quan điểm đề xuất của hai vị cao tăng này có dựa trên nền tảng kinh điển hay không, đó là điều mà chúng ta cần đối chiếu, xem xét.
3- Đánh giá về các nguồn tư liệu Hán tạng
Trước hết, về quan điểm Đức Phật thành đạo vào ngày mùng 8 tháng 2 ở kinh Trường A-hàm, kinh Quá khứ hiện tại nhân quả và luật của bộ phái Tát-bà-đa; các vị cao tăng khi phiên dịch kinh, luật đã giữ nguyên ngày tháng theo truyền thống Ấn Độ. Theo tư liệu Phật giáo Nam truyền, Đức Phật thành đạo vào tháng Vesākha. Ngài Huyền Tráng trong Đại Đường Tây Vức Ký đã phiên âm Vesākha là Phệ-xá-khư(吠舍佉). Theo lịch pháp Ấn Độ, Phệ-xá-khư là tháng thứ hai trong 12 tháng12. Như vậy, khi kinh văn Hán tạng cho rằng, Đức Phật thành đạo vào ngày mùng 8 tháng 2 là dựa trên lịch pháp của Ấn Độ.
Thứ hai, các bản kinh như Phật-bát-nê-hoàn, kinh Bát-nê-hoàn và kinh Ma-ha-sát-đầu cho rằng Đức Phật thành đạo vào ngày mùng 8 tháng 4, thì có thể các nhà phiên dịch đã chuyển đổi thời gian sang hệ lịch pháp của Trung Hoa lúc bấy giờ. Theo khảo sát, lịch pháp Trung Hoa trong thời phong kiến đã nhiều lần thay đổi. Đến thời Đường Huyền Tông (685-762), nhằm bổ chính những khiếm khuyết từ các bộ lịch pháp trước đó, vào niên hiệu Khai Nguyên năm thứ chín (712), Đường Huyền Tông đã phụng thỉnh Thiền sư Nhất Hạnh (683-727)13 soạn Đại Diễn Lịch (大衍曆), gồm 52 quyển14.Chính vì vậy, sự chuyển đổi về ngày tháng trong những dịch phẩm kinh điển vừa nêu chỉ mang tính tương đối, vì cơ sở lịch pháp Trung Hoa dùng để tham chiếu trong thời kỳ này chưa đồng bộ và nhất quán.
Thứ ba, cả sáu nguồn kinh điển Hán tạng nêu trên đều không đề cập đến ngày mùng 8 tháng 12, ngày Đức Phật thành đạo. Vậy, dựa trên cơ sở nào để ngài Tuệ Tư và ngài Bách Trượng xác quyết Đức Phật thành đạo vào ngày mùng 8 tháng 12?
Theo Đại Tống Tăng Sử Lược của ngài Tán Ninh (919-1002)15, căn cứ vào lịch pháp của nhà Châu (周曆), thì tháng 2 ở Ấn Độ tương đương tháng 12 ở Trung Quốc16. Trong tác phẩm Chiết nghi luận của ngài Tử Thành, tức Tỳ-kheo Sư Tử, cũng khẳng định điều tương tự17.
Như vậy, qua sự chuyển đổi lịch pháp, các vị cao tăng của Phật giáo Bắc truyền đã xác quyết ngày Đức Phật thành đạo nhằm ngày mùng 8 tháng 12 âm lịch. Quan điểm này căn cứ vào kinh Du hành trong Trường A-hàm, và những bản kinh tương đương, xác tín ngày Đức Phật thành đạo là ngày mùng 8 tháng 2 theo lịch pháp Ấn Độ.
Nếu tính khởi đầu từ thời ngài Tuệ Tư (515-577), thì truyền thống tổ chức lễ hội Đức Phật thành đạo vào ngày mùng 8 tháng 12 đã gần 1.500 năm. Với chiều dài lịch sử đó, phải chăng đây cũng là ngày Đức Phật thành đạo được các truyền thống Phật giáo khác công nhận và thừa hành? Nghi vấn này sẽ được làm rõ khi khảo sát về ngày thành đạo của Đức Phật qua kinh tạng Nikāya.
Ngày, tháng Đức Phật thành đạo theo kinh tạng Nikāya
1- Cơ sở tư liệu
Có nhiều bản kinh trong năm bộ Nikāya tuy ghi nhận về lịch sử cuộc đời Đức Phật, nhưng không đề cập chi tiết về ngày, tháng thành đạo. Có thể nói, lịch sử Đức Phật nói chung và chi tiết về ngày thành đạo nói riêng theo quan điểm Phật giáo Nam truyền, có thể tìm thấy trong hai nguồn tư liệu chính, đó là tác phẩm Nidānakathā và Mahāvaṃsa.
Theo tác phẩm Nidānakathā, sau khi thọ dụng bát cháo sữa từ nàng Sujātā vào ngày trăng tròn tháng Vesākha (Visākhapuṇṇamāya)18, Bồ-tát Siddhattha đã thiền tọa dưới gốc cây bồ-đề (Bodhirukkha)19,hàng phục ma quân và chứng thành Phật quả (Buddhabhūtassa)20.
Theo tác phẩm Mahāvaṃsa (Mhv.I,12), tại Ưu-lâu-tần-loa (Uruvela) thuộc vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha), dưới gốc cây bồ-đề (Bodhimūla), bậc Đại sĩ (Mahāmuni) đã chứng đạt quả vị Toàn giác tối thắng (patto sambodhimuttamaṃ) vào ngày trăng tròn tháng Vesākha (Visākhapuṇṇamāyaṃ)21.
Như vậy, cả Nidānakathā và Mahāvaṃsa đều ghi nhận Đức Phật thành đạo vào ngày trăng tròn tháng Vesākha. Với sự khẳng định quan trọng như vậy, thì việc thẩm sát về nguồn gốc, cũng như các khía cạnh liên quan của hai tác phẩm này là những yêu cầu quan thiết.
2- Thẩm định về hai nguồn tư liệu
Trước hết, Nidānakathā là một văn bản nằm phía trước tập truyện tiền thân Đức Phật (Jātaka). Theo T. W. Rhys Davids, tác phẩm Nidānakathā được xem như một đề dẫn về lịch sử Đức Phật (Buddhavaṃsa)22. Theo tác giả Oskar von Hinüber, Nidānakathā là tư liệu quan trọng nhất về lịch sử Đức Phật của Phật giáo Theravāda23. Với tác giả Hajime Nakamura (1912-1999), thì Nidānakathā là một nguồn tư liệu quan trọng không thể thiếu để ông viết nên tác phẩm Đức Phật Gotama: một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất24. Do vậy có thể thấy, nghiên cứu về lịch sử Đức Phật thì không thể không tham khảo văn bản Nidānakathā. Cũng theo tác giả Hajime Nakamura, tác phẩm Nidānakathā được cho là của ngài Buddhaghosa ở thế kỷ thứ V25. Quan điểm này hiện vẫn chưa được khảo chứng.
Theo nội dung được chuyển tải trong Nidānakathā, thì Bồ-tát đã thọ dụng món cháo sữa (khīra) do nàng mục nữ Sujātā hiến cúng vào ngày trăng tròn tháng Vesākha (Visākhapuṇṇamāya).Sau đó, Bồ-tát phải trải qua bảy lần bảy ngày, tức 49 ngày dưới cội bồ-đề mới chứng thành Phật quả. (Buddhabhūtassa sattasattāhaṁ bodhimaṇḍe vasantassa ekūṇapaññāsa divasanī)26. Bốn mươi chín ngày đã gần hai tháng. Do vậy, theo logic nội tại từ tác phẩm Nidānakathā, thì thời điểm Thành đạo của Đức Phật đã không nằm trong tháng Vesākha!
Kế đến, tác phẩm Mahāvaṃsa do tôn giả Mahānāma biên soạn vào cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI27. Nội dung của tác phẩm đề cập đến lịch sử của Sri Lanka và Phật giáo, là tư liệu quý hiếm về lịch sử Phật giáo trong giai đoạn này. Tuy nhiên, do tác phẩm trộn lẫn giữa huyền thoại và hiện thực lịch sử, nên cần phải tham chiếu nhiều tài liệu liên quan khi cần xác tín một dữ kiện nào đó.
Sự trộn lẫn giữa yếu tố huyền thoại và hiện thực trong tác phẩm Mahāvaṃsa, theo tác giả Douglas Bullis trong tác phẩm Mahavamsa: The great chronicle of Sri Lanka, là thủ pháp biên soạn của ngài Mahānāma, nhằm hóa giải xung đột giữa truyền thống Theravāda cổ điển và lý tưởng Bồ-tát, trong giáo nghĩa Mahāyāna đang diễn ra trong thời đại của ngài Mahānāma28.
Ở đây, tác phẩm Mahāvaṃsa đã khẳng định Đức Phật thành đạo vào ngày trăng tròn tháng Vesākha có phần giống như câu chuyện được ghi lại trong tác phẩm Nidānakathā. Phải chăng, trong quá trình biên soạn, Tôn giả Mahānāma đã kế thừa tư liệu từ Nidānakathā? Điều này hiện vẫn chưa được khảo chứng, thế nhưng trong thực tế, tác phẩm Mahāvaṃsa đã kế thừa nhiều nguồn sử liệu, trong đó có tác phẩm Dīpavaṃsa.
Theo tác phẩm Nidānakathā đã được khảo chứng ở trên, thì Đức Phật thành đạo không nằm trong tháng Vesākha. Thế nhưng ở Mahāvaṃsa vẫn khẳng định Đức Phật thành đạo vào ngày trăng tròn tháng Vesākha, xuất hiện trong một câu đơn lập, và không có tư liệu liên quan để bổ trợ thông tin. Đây cũng là một tồn nghi theo quan điểm của chúng tôi.
Mặc dù vậy, khách quan mà nhìn nhận, sự khẳng định về ngày Thành đạo của Đức Phật trong tác phẩm Mahāvaṃsa ở thế kỷ thứ VI, cũng tương tự như ghi chép của ngài Huyền Tráng (602-664) ở thế kỷ thứ VII. Cụ thể là, theo tác phẩm Đại đường tây vức ký, quyển tám ghi rằng:Thượng-tọa-bộ cho rằng Như Lai thành Đẳng-chánh-giác vào ngày 15 nữa tháng sau của tháng Phệ-xá-khư, tương đương ngày 15 tháng 3 ở Trung Hoa vậy29.
Nếu căn cứ vào niên đại của văn bản này, thì truyền thống Đức Phật thành đạo vào ngày trăng tròn tháng Vesākha của Phật giáo Nam truyền cũng có lịch sử gần 1.500 năm, cũng gần bằng với khoảng thời gian mà Phật giáo Bắc truyền tổ chức, vào ngày mùng 8 tháng 12 ở thời ngài Tuệ Tư (515-577), mà chúng tôi đã nêu dẫn.
Như vậy, theo những khảo chứng trên, cả Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền đều tổ chức ngày lễ Thành đạo vào những thời điểm khác nhau trong năm và đã có lịch sử gần 1.500 năm. Thử hỏi, trong hai truyền thống đó, thì truyền thống nào gần với hiện thực lịch sử?
Ở đây, chúng tôi không có tham vọng làm sáng tỏ hoàn toàn câu hỏi này, mà sẽ cố gắng minh định ngày Thành đạo của Đức Phật, dựa trên những sự kiện liên quan đến thời điểm Đức Phật thành đạo, được cả hai truyền thống Phật giáo công nhận. Và, một trong những cơ sở khảo sát của chúng tôi, đó chính là sự kiện Đức Phật thọ nhận bó cỏ Kusa trải làm tòa ngồi suốt 49 ngày đến khi Ngài thành đạo.
Từ bó cỏ Kusa đến thời gian Đức Phật thành đạo
Kusa là một loại cỏ thiêng trong văn hóa Ấn Độ, được Ấn giáo, Phật giáo và nhiều ngành y khoa tin dùng, từ ngàn xưa và ngay cả hôm nay. Cỏ Kusa có nhiều tên gọi tùy theo địa phương, mọc ở nhiều quốc gia nhiệt đới trên thế giới trong đó có Ấn Độ, Nepal.
1- Cỏ Kusa trong Ấn giáo và trong kinh điển Phật giáo
Cỏ Kusa có mặt trong kinh văn Ấn Độ cổ đại, cụ thể là trong tác phẩm Rig-Veda, trong Atharva-Veda và cả trong luật Manu (II.75)30. Tác phẩm Atharva-Veda đã dành nhiều đoạn (AV.XIX.32.3), (AV.XIX.33.1) ca tụng loại cỏ thiêng này:
Ôi Kusa, cội nguồn của ngươi thì trên Thiên giới, nhưng đã sống vững chãi ngay cõi đất này31! …. là vua giữa các loại cỏ cây32.
Cỏ Kusa còn được các nhà khổ tu Ấn giáo sử dụng làm áo mặc (kusacīrampi) hoặc trải làm toà ngồi33, là phẩm vật quan trọng không thể thiếu trong nghi lễ của Bà-la-môn giáo. Đoạn kinh Tăng chi đã ghi nhận điều này:
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Jānussoni, nhân ngày trai giới Uposatha, sau khi gội đầu và mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng không xa Thế Tôn bao nhiêu. Thế Tôn thấy Bà-la-môn Jānussoni, nhân ngày trai giới Uposatha, sau khi gội đầu và mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng một bên không xa bao nhiêu, thấy vậy liền nói với Bà-la-môn Jānussoni:
- Này Bà-la-môn, nhân ngày trai giới Uposatha, Ông gội đầu, mặc đôi áo lụa mới, tay cầm nắm cỏ kusa ướt, đứng một bên để làm gì? Có phải hôm nay là ngày của gia đình Bà-la-môn?
- Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay là ngày xuất ly của gia đình Bà-la-môn.
- Này Bà-la-môn, như thế nào là ngày xuất ly của các Bà-la-môn?
- Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn nhân ngày trai giới Uposatha gội đầu, mặc đôi áo lụa mới, thoa sàn nhà với phân bò ướt, trải với cỏ kusa xanh, và nằm xuống giữa đống cát và nhà lửa. Ðêm ấy họ dậy ba lần, chắp tay đảnh lễ ngọn lửa và nói: “Chúng tôi đi xuống đến Tôn giả”. Rồi họ đốt lửa với nhiều thục tô, và sanh tô, và sau khi đêm ấy đã qua, họ cúng dường các Bà-la-môn với các món ăn thù diệu, loại cứng và loại mềm. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là lễ đi xuống của các Bà-la-môn34.
Cỏ Kusa có mặt trong cả năm bộ Nikāya, nhằm chỉ cho một loại cỏ với hai cạnh bên sắc bén, có thể làm đứt tay (Dhp. 311), hoặc dễ bị giật đứt (S.iii,137), hoặc dùng làm áo mặc (D.i, 166; M.ii,162), hoặc dùng để xâu cá (It,67)…Đặc biệt, trong lịch sử Đức Phật, cỏ Kusa là một trong những bằng chứng quan trọng, liên quan đến thời điểm thành đạo của Đức Thế Tôn.
2- Thiền tòa bằng cỏ Kusa
Theo Nidānakathā, sau khi thọ dụng bát cháo sữa của nàng mục nữ Sujātā, Bồ-tát Siddhattha đã lên đường hướng đến cội bồ-đề. Trên đường đi, gặp chàng thanh niên tên là Sotthiyo đang gánh cỏ đem bán (tiṇahāraka), sau khi nhận biết (ñatvā)Ngài là một bậc Đại nhân (mahāpurisa), nên anh ta đã cúng dường tám bó cỏ. Bồ-tát nhận cỏ và đi về cây bồ-đề. Sau khi cân nhắc phương hướng, Ngài đã trải cỏ làm tòa dưới gốc bồ-đề và dũng mãnh phát nguyện: “Cho dù da thịt, gân, xương trở nên khô cằn, máu trong thân này dẫu có cạn kiệt, nhưng nếu không đạt đạo35, Ta quyết không rời chỗ này”.(Kāmaṁ taco ca nahāru ca aṭṭhi ca avasussatu, upasussatu sarīre maṁsalohitaṁ, na tv-eva sammāsambodhiṁ appatvā imaṁ pallaṁkaṁ bhindissāmītī)36. Đại nguyện này của Bồ-tát cũng được Luận Đại-trí-độ ghi nhận: “Ta nguyện thiền tọa tại đây đến khi chứng đạt Nhất-thiết-trí. Nếu chưa chứng Nhất-thiết-trí, Ta quyết không rời chỗ này”(要不破此結加趺坐,成一切智; 不得一切智, 終不起也)37.
Ở đây, trong bản văn Nidānakathā chỉ ghi nhận người thanh niên cắt cỏ tên là Cát Tường (Sotthiyo) đã dâng cúng tám bó cỏ (aṭṭha tiṇamuṭṭhiyo adāsi) cho Bồ-tát. Theo từ điển Pāli-English của PTS38, Sotthi có nghĩa an lành, an lạc, cũng có nghĩa là cát tường (well-being, safety), ngôn ngữ Sanskrit ghi là Svasti, cũng mang ý nghĩa tương tự39.
Kinh điển Hán tạng ghi nhận về loại cỏ này rất sớm. Chẳng hạn, trong kinh Tu hành bổn khởi, do Khang Mạnh Tường dịch vào năm 19740, ghi rằng,khi Bồ-tát hỏi chàng thanh niên đó tên gì, thì chàng ta đáp rằng: Tên con là Cát Tường, con cắt cỏ cát tường41. Ngài Huyền Tráng cũng xác tín sự kiện Bồ-tát thọ nhận cỏ cát tường trong Đại đường tây vức ký42. Ngài Nghĩa Tịnh trong Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ nại da xuất gia sự43 cũng ghi nhận loại cỏ cát tường.
Trở lại từ nguyên Sotthi trong Nidānakathā, từ này đã được các nhà dịch thuật Hán tạng phiên âm thành Cô-thi-thảo (姑尸草)44và cũng gọi là cát tường (言吉祥也). Theo Phật học đại từ điển của Đinh Phúc Bảo thì Cô-thi-thảo (姑尸草)được dịch là cỏ cát tường, Cô-thi (姑尸) chính là Kusa45.
Từ những khảo chứng nêu trên, đã xác tín rằng, Đức Phật thọ nhận cỏ Kusa từ một người cắt cỏ và trải làm thiền tòa. Sau 49 ngày miên mật thiền định trên thảm cỏ Kusa, Ngài đã giác ngộ viên mãn.Chính vì vậy, theo chúng tôi, việc tìm hiểu thời gian sinh trưởng của cỏ Kusa trong điều kiện tự nhiên, sẽ góp phần làm sáng tỏ thời gian thành đạo của Đức Phật.
3- Điều kiện sinh trưởng của cỏ Kusa và thời gian Đức Phật thành đạo
Cỏ Kusa còn có tên gọi là cỏ Darbha theo Ấn giáo46, hiện vẫn được dùng làm nệm để ngồi thiền (Kusa mat) và làm nhẫn để đeo (Kusa ring) trong nghi lễ tôn giáo ở Ấn Độ47. Các vật dụng bằng cỏ Kusa mãi đến ngày hôm nay vẫn được chế tạo, mua bán giao dịch, có thể tìm thấy trên website thương mại toàn cầu ebay.in. Theo tạp chí Lịch sử khoa học Ấn Độ (Indian Journal of History of Science), cỏ Kusa có danh pháp khoa học là Desmostachya Bipinnata48.Theo tạp chí Quản lý môi trường sinh thái và chăn thả (Rangeland Ecology & Management)49, Kusa là loại cỏ lưu niên, được phát hiện sống rải rác ở nhiều nơi, từ Sudanian, Bắc Phi, Trung Đông, Trung Á, Pakistan và cả Ấn Độ. Trong nông nghiệp, Kusa được xem như một loài cỏ dại, có khả năng chịu mặn cao. Thân rễ của cây phát triển mạnh sau mùa mưa (after monsoon rains), cây trưởng thành, ra hoa và kết trái từ tháng Sáu cho đến tháng Mười.
Trong điều kiện tự nhiên ở Ấn Độ ngày nay, cỏ Kusa thường sống những vùng trũng, thấp và dọc hai bờ sông. Thuở xưa cũng vậy, kinh Tương ưng (S.iii,137) ghi nhận cỏ Kusa mọc hai bên bờ sông. Thực tế này giống với trường hợp thanh niên Sotthiyo cắt cỏ Kusa bên bờ sông Niranjana.
Ở đây, theo nghiên cứu của các nhà khoa học trong bài viết liên quan đến cỏ Kusa ở tạp chí Quản lý môi trường sinh thái và chăn thả ở trên, thì cỏ Kusa ra hoa và trưởng thành từ tháng Sáu cho đến tháng Mười, sau mùa mưa.
Trong khi đó, ở Ấn Độ có hai mùa mưa, mùa mưa Tây Nam và mùa mưa Đông Bắc. Theo tác giả Sulochana Gadgil, ở Trung tâm Khí quyển và Khoa học đại dương, thuộc Viện khoa học Ấn Độ, thì mùa mưa Tây nam là mùa mưa chính, diễn ra trên phần lớn lãnh thổ của Ấn Độ, từ tháng 6 đến tháng 950.
Từ điều kiện sinh trưởng của cỏ Kusa và điều kiện thời tiết ở Ấn Độ như đã trình bày, thì thời điểm thích hợp để chàng thanh niên Sotthiyo thu hoạch cỏ Kusa thương phẩm để đem bán (tiṇahāraka), không thể diễn ra sớm hơn tháng 6 Tây lịch. Như vậy, thời điểm thích hợp để Đức Phật nhận tám bó cỏ Kusa làm thiền tòa vào khoảng tháng 10. Sau đó, Ngài đã thiền tọa bốn mươi chín ngày, tức gần hai tháng.
Nếu lịch sử Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền đều ghi nhận thời gian Bồ-tát thiền định là 49 ngày; nếu cả hai truyền thống Phật giáo đều công nhận Bồ-tát dùng cỏ Kusa để làm thiền tòa, thì thời gian Đức Phật thành đạo hợp lý sẽ diễn ra trong mùa đông, nếu nói chính xác hơn vào khoảng tháng 12 dương lịch.
Nhận định
Với Phật giáo nói chung, ngày Thành đạo của Đức Phật là một ngày lễ quan trọng và thiêng liêng. Vì không có ngày Thành đạo của Đức Phật, thì sẽ không có ngày Đản sanh cũng như nhập Niết-bàn. Với ý nghĩa đó, ngày Đức Phật thành đạo cũng là ngày Phật đản sanh: ngày xuất hiện một vị Phật trên đời. Nhận thức rõ về điều này và tổ chức sự kiện đúng với tầm mức là việc làm có ý nghĩa thiết thực.
Từ thực tế, lễ Đức Phật thành đạo đã được hai truyền thống Phật giáo, Bắc truyền và Nam truyền tổ chức vào hai thời điểm khác nhau trong năm và đã có lịch sử gần 1.500 năm. Việc tổ chức lễ hội thành đạo ở mỗi truyền thống Phật giáo chứa đựng những giá trị đặc thù, và đã trở thành nét văn hóa riêng có.
Từ khảo chứng về điều kiện sinh trưởng của cỏ Kusa và thời tiết Ấn Độ ở trên cho thấy, Đức Phật thành đạo trong mùa đông ở Ấn Độ, vào khoảng tháng 12 Tây lịch. Các dữ kiện liên quan đến thời điểm thành đạo của Đức Phật đã củng cố và bổ trợ cho quan điểm này. Cụ thể, khi những con sông ở Ấn Độ cạn nước vào mùa đông như sông Niranjana, thì Bồ-tát mới dễ dàng lội qua như cổ thư Tây Tạng đã chỉ rõ51, và phù hợp với thực tế lịch sử ngày nay. Không những vậy, thời điểm Đức Phật thành đạo cũng là thời gian khô ráo, vì suốt gần hai tháng, thời tiết rất thuận lợi để Bồ-tát thiền định ngoài trời dưới gốc cây bồ-đề.
Từ những đối khảo đã chỉ ra, thời gian tổ chức lễ Thành đạo của hai truyền thống Phật giáo nêu trên mang dấu ấn của chân lý quy ước (sammuti-sacca), vì căn cứ trên sự thống nhất và đồng thuận của nhiều giới và nhiều người, trong quá khứ, cũng như hiện tại. Việc vượt qua giới hạn của chân lý quy ước này, để vươn lên tầm nhận thức chân lý tuyệt đối về thực tại (paramattha-sacca), giúp cho người học Phật gặt hái nhiều thành tựu to lớn, và một trong số đó chính là thành tựu niềm tịnh tín bất động đối với Đức Phật - bậc vĩ nhân có thật trong cuộc đời này.
Chúc Phú/Nguyệt san Giác Ngộ
Tài liệu và sách 🞄 22/03/2023
Sau cuộc nói chuyện dài gần 45 phút, tôi đến nhà của Phúc và xem tình trạng của mẹ Phúc thì biết rằng cô ấy thật sự bị dính ngải. Nhưng tôi không nói ra điều này, vì gia đình Phúc không tin chuyện bùa ngải.
Tài liệu và sách 🞄 22/03/2023
Sau cuộc nói chuyện dài gần 45 phút, tôi đến nhà của Phúc và xem tình trạng của mẹ Phúc thì biết rằng cô ấy thật sự bị dính ngải. Nhưng tôi không nói ra điều này, vì gia đình Phúc không tin chuyện bùa ngải.
Tài liệu và sách 🞄 22/03/2023
Tự biết đời trước mình có nợ oan trái với người bạn đó. Nên ở trước tượng Phật ông trang trọng thắp hương lễ bái. Mỗi ngày tụng một bộ Kinh Địa Tạng hồi hướng cho anh ta. Còn phát nguyện học theo Bồ Tát Địa Tạng trợ giúp cho cha mẹ anh ta.
Tài liệu và sách 🞄 22/03/2023
Tự biết đời trước mình có nợ oan trái với người bạn đó. Nên ở trước tượng Phật ông trang trọng thắp hương lễ bái. Mỗi ngày tụng một bộ Kinh Địa Tạng hồi hướng cho anh ta. Còn phát nguyện học theo Bồ Tát Địa Tạng trợ giúp cho cha mẹ anh ta.
Giảng luận 🞄 22/03/2023
Mật Tông Tây Tạng là một trong những trường phái tu tập lớn nhất tại đất nước Tây Tạng. Vậy hành trình Mật Tông du nhập vào đất Tây Tạng có gì đặc biệt?
Giảng luận 🞄 22/03/2023
Mật Tông Tây Tạng là một trong những trường phái tu tập lớn nhất tại đất nước Tây Tạng. Vậy hành trình Mật Tông du nhập vào đất Tây Tạng có gì đặc biệt?
Tâm linh và Phật pháp 🞄 22/03/2023
Quỷ có rất nhiều loại. Có người cứ tưởng rằng quỷ có bộ dạng hung ác, đáng sợ với bộ dạng mặt xanh, răng nhọn. Thật ra, không nhất định là như thế. Có lúc quỷ hóa ra thân người, mới thấy thì tưởng như người thật, nhưng lại là quỷ.
Tâm linh và Phật pháp 🞄 22/03/2023
Quỷ có rất nhiều loại. Có người cứ tưởng rằng quỷ có bộ dạng hung ác, đáng sợ với bộ dạng mặt xanh, răng nhọn. Thật ra, không nhất định là như thế. Có lúc quỷ hóa ra thân người, mới thấy thì tưởng như người thật, nhưng lại là quỷ.
Tâm linh và Phật pháp 🞄 22/03/2023
Khoảng hơn 20 năm trước, những người buôn bán tượng cổ đa phần đều giàu phất lên. Thế nhưng về sau, những tai ương bất ngờ cứ liên tiếp ập đến với họ. Có người chết đột ngột không rõ nguyên nhân, có người vướng vào vòng lao lý, có người làm ăn đi xuống… Thế nên đến bây giờ, ngoài lý do bị pháp luật nghiêm cấm thì giới chơi đồ cổ vẫn thường rỉ tai nhau nỗi kinh sợ khi có ý định mua bán tượng cổ – Ông Nguyễn Trường, Chủ nhiệm Câu lạc bộ thú chơi cổ ngoạn của người Hà Nội cho biết.
Tâm linh và Phật pháp 🞄 22/03/2023
Khoảng hơn 20 năm trước, những người buôn bán tượng cổ đa phần đều giàu phất lên. Thế nhưng về sau, những tai ương bất ngờ cứ liên tiếp ập đến với họ. Có người chết đột ngột không rõ nguyên nhân, có người vướng vào vòng lao lý, có người làm ăn đi xuống… Thế nên đến bây giờ, ngoài lý do bị pháp luật nghiêm cấm thì giới chơi đồ cổ vẫn thường rỉ tai nhau nỗi kinh sợ khi có ý định mua bán tượng cổ – Ông Nguyễn Trường, Chủ nhiệm Câu lạc bộ thú chơi cổ ngoạn của người Hà Nội cho biết.
Nghi thức cúng lễ 🞄 22/03/2023
Tìm hiểu các bài văn khấn Tết Hàn thực ngày 3/3 m lịch năm 2023 chuẩn và đầy đủ nhất theo "Văn khấn Cổ truyền Việt Nam" của NXB Văn hóa Thông tin
Nghi thức cúng lễ 🞄 22/03/2023
Tìm hiểu các bài văn khấn Tết Hàn thực ngày 3/3 m lịch năm 2023 chuẩn và đầy đủ nhất theo "Văn khấn Cổ truyền Việt Nam" của NXB Văn hóa Thông tin